Đường xưa mây trắng là một tác phẩm nổi tiếng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh, được dịch sang 20 thứ tiếng, bán được hàng triệu bản in, và được công nhận là một trong những tác phẩm hay nhất thế kỷ 20. Tại sao tác phẩm lại có sức lan tỏa và tác động sâu rộng như vậy? Chắc hẳn mỗi người chắc sẽ tự tìm được cho mình những lý giải khi đọc và trải nghiệm qua từng trang sách.
Đường xưa mây trắng kể về cuộc đời
của Đức Phật (danh xưng dùng trong sách là Bụt, rất gần gũi với Buddha – nghĩa
là người tỉnh thức – hàm chứa ý nghĩa sâu sắc và dễ hiểu). Cuộc đời của Bụt
được kể từ khi ngài còn nhỏ, trải qua quãng thời gian tìm học đạo, thành tựu,
và trao truyền lại cho mọi người.
Khác với nhiều cuốn sách về Phật
giáo khác, Đường xưa mây trắng không có những hình ảnh về địa ngục, cõi ngã
quỷ, hay những câu chuyện về các nhân vật thần thông, hào quang… Những chi tiết
phi thường này đôi khi có thể gây hiểu nhầm về giáo lý Phật pháp. Đây là cuốn
sách tuyệt vời để bạn tiếp cận với nguồn gốc của Phật Giáo nguyên thủy, với
những triết lý căn bản, rất khoa học, rất hợp lý, rất đời thường; và đầy sức
thuyết phục.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã kể về
Bụt với những đặc điểm rất con người. Người cũng có tính cách, có cảm thụ, có
nhiều trăn trở, bất an…Người được soi chiếu trong những mối quan hệ mà ở đó,
Người là người con, người chồng, người cha, người bạn, người thầy….Bởi vậy, mà
người đọc thấy thật gần gũi, thấy mình trong Bụt, và thấy được con đường nương
theo suy nghĩ, trải nghiệm của Bụt mà hiểu và thấm được những đạo lý của Người.
Những giáo lý như “vô thường”, “vô ngã”, “chánh kiến”, “chánh tư duy”, “chánh
ngữ”, “chánh nghiệp”….hay những phương thức tu tập thiền hành, và các nghi thức
được lý giải trong những câu chuyện cụ thể, hoàn cảnh cụ thể, vì vậy mà gần gũi
và dễ hiểu hơn rất nhiều lần. Người đọc sẽ có thể tiếp cận được gốc của những
giáo lý này, một cách sâu sắc.
Qua truyện kể và lý giải của Thiền
sư, ta thấy sự hợp lý trong trăn trở của Đức Phật, trên con đường Người đi tìm
đạo. Thiền sư đã lý giải:
“Chàng để hết tâm ý vào các vấn đề
chính trị, kinh tế và quân sự được đưa ra và chàng nhận ra rằng căn bản của các
vấn đề nằm ở nhận thức và tư dục của người làm chính sự.”
Và chàng nói:
“Không phải là con không ý kiến,
nhưng những ý kiến của con nếu nói ra, cũng không có ích lợi gì, vì chúng chỉ
có thể nêu ra chứng bệnh, mà chưa phải là phương thuốc trị bệnh. Con thấy con
chưa có đủ khả năng để thay đổi tâm trạng của các quan. … Con không tin rằng
tài năng là yếu tố căn bản. Con nghĩ rằng vấn đề căn bản là giải phóng được cho
tâm mình. Con biết là chính con, con cũng bị khuynh đảo bởi những tình cảm như
buồn giận, ganh ghét, sợ hãi và những ham muốn bình thường.”
Như một người bình thường, với những
trăn trở về cuộc sống, về hạnh phúc, Thái tử Siddhatta hiểu rằng nếu bản thân
chưa tìm được con đường để hạnh phúc, thì không thể giúp những người xung
quanh, giúp cho chính cha mẹ, vợ con của mình. Ta thấy đầy ý thức trách nhiệm
trong sự ra đi của người:
“Em sẽ chăm sóc con và nuôi con lớn
lên, dù anh có đi , dù anh có ở xa em thì tình thương của anh đối với em bao
giờ cũng thế. Anh sẽ chẳng bao giờ không yêu em. Nếu em biết như thế thì em có
thể chịu đựng được sự xa cách.”
Và với phụ vương:
“Thưa phụ vương, chính vì con nghĩ
đến cho nên con mới xin phép phụ vương cho con ra đi. Con đi đây không phải là
để cho một mình con. Con không ích kỷ đi trốn tránh nhiệm vụ của con. Chính phụ
vương cũng biết rằng phụ vương không giúp được cho con giải tỏa những khổ đau
dằn vặt trong con. Ngay cả những khổ đau dằn vặt trong lòng phụ vương, phụ
vương cũng chưa giải tỏa được.”
Đức Phật đã tìm đến nhiều người thầy
để học hỏi, đến đâu Đức Phật cũng rất chăm chỉ, nghiêm túc và đều đạt được
thành tựu cao nhất, nhưng Người thấy rằng những phép tu tập để tìm cách tách
rời khỏi thế giới của cảm giác và tri giác không giúp ích được triệt để. Để
rồi, cuối cùng:
“Siddhatta bừng tỉnh, thấy được
rằng con đường khổ hạnh là con đường sai lầm.
Nắng đã tắt và gió chiều nhè nhẹ tới
mơn trớn trên làn da ông. Đã ngồi trọn một ngày trong nắng, bây giờ Siddhatta
thấy làn gió mát dịu lạ thường, và ông thấy tâm hồn ông sản khoái hơn ban ngày
nhiều lắm. Ông nhận ra rằng thân và tâm là một thực thể không thể tách rời ra
được và sự an lạc của thân có liên hệ với sự an lạc của tâm, hành hạ xác thân
cũng là hành hạ tâm trí.”
“Tại sao ta phải mãi nương theo
truyền thống của kinh điển? Tại sao ta phải sợ hãi những an lạc do thiền định
đưa tới? Những an lạc ấy không dính líu gì hết với năm loại dục lạc thường có
tác dụng che lấp tâm trí. Trái lại, những an lạc ấy có thể nuôi dưỡng hình hài
và tâm hồn ta để ta có thể có đủ sức mạnh mà đi xa trên đường giác ngộ”.
Sự giác ngộ tưởng là giản đơn và hợp
lý ấy, là khởi đầu cho nhiều “cái thấy” mà Đức Phật đã chứng nghiệm, và thành
tựu. Từ đó, các chân lý dần hiện ra, được Người giác ngộ và truyền thụ bằng
phương thức gần gũi và dễ hiểu nhất. Tu tập và giác ngộ hóa ra không phải là
con đường siêu nhiên, thần thánh, con đường tu tập được mở rộng và khả thi biết
bao. Điều quan trọng là người đọc có thể thấy được chân lý, sự giác ngộ không
nằm ở nơi Bụt, mà là ở sự trải nghiệm của mỗi cá nhân riêng lẻ.
Qua 81 chương sách, người đọc sẽ dần
dẫn được dẫn lối, khai thị để hiểu về Phật giáo một cách giản dị và sâu sắc như
thế.
Thiền sư Thích Nhất Hạnh không chỉ
vận dụng tâm của một bậc đại sư để khai thị, mà còn sử dụng sự tài hoa của một
giáo viên dạy văn, để thổi chất thơ vào tác phẩm, tạo nên những áng văn tươi
mát, cuốn hút người đọc:
“Nắng lên cao, những đám mây trắng nhỏ
vẫn còn lơ lửng trên nền trời xanh biếc.
Bờ sông bên kia vẫn xanh mướt cỏ non. Con đường bờ sông này ngày xưa Bụt
đã qua lại nhiều lần.
Con đường bờ sông này có thể dẫn về Banarasi, có thể dẫn về thủ đô
Savatthi, có thể dẫn về thủ đô Rajagaha, mà cũng có thể dẫn đi khắp chốn.
Bụt đã ghi dấu chân trên mọi nẻo đường hành hóa. Đi đâu đại đức cũng sẽ
giẫm lên dấu chân của người.”
Mỗi người sẽ ghi nhớ về tác phẩm tuyệt diệu này bởi những
ấn tượng khác nhau. Với tôi, một trong những điều đọng lại là lời dạy:
“Ngón tay chỉ trăng không phải là mặt trăng”
0 التعليقات:
إرسال تعليق